Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người dùng chất kích thích gây ra được pháp luật quy định như thế nào là mối quan tâm của rất nhiều người. Gây thiệt hại trong lúc dùng chất kích thích là một yếu tố tăng nặng trách nhiệm. Do đó, hãy theo dõi bài viết sau đây của chúng tôi để giải quyết những thắc mắc về vấn đề này nhé.
Quy định về việc dùng chất kích thích
Mục Lục
Quy định về năng lực hành vi dân sự
Theo quy định tại Điều 19 Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS 2015) thì năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.
Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người thành niên từ đủ 18 tuổi trở lên trừ những trường hợp sau:
- Người được kết luận bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi;
- Người mà do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự;
- Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình.
Cơ sở pháp lý: Điều 20, Điều 22, Điều 23, Điều 24 Bộ luật Dân sự 2015.
Người dùng chất kích thích gây thiệt hại có phải chịu trách nhiệm bồi thường không?
Trường hợp người tự nguyện sử dụng chất kích thích
Theo Khoản 1 Điều 596 Bộ luật Dân sự 2015 quy định Người do uống rượu hoặc do dùng chất kích thích khác mà lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi, gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường.
Do đó, nếu người gây thiệt hại đã tự mình uống rượu hoặc chất kích thích và tự đưa mình vào tình trạng mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình thì họ phải hoàn toàn gánh chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Bởi lẽ, người gây thiệt hại trong trường hợp này là người mà trước đó họ hoàn toàn có khả năng nhận thức nên họ bị coi là có lỗi khi tự đưa mình lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và vì thế, họ phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả của hành vi đó. Thậm chí, họ còn phải chịu cả trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 13 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) nếu hành vi gây thiệt hại của họ đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm đối với các loại tội phạm được pháp luật hình sự quy định.
Trường hợp người bị ép sử dụng chất kích thích
Theo Khoản 2 Điều 596 BLDS 2015 quy định Khi một người cố ý dùng rượu hoặc chất kích thích khác làm cho người khác lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
Trong trường hợp này, nếu người đã cố ý đưa người gây thiệt hại vào tình trạng nói trên có chứa đựng động cơ, mục đích là nhằm để người dùng rượu hoặc chất kích thích khác gây ra thiệt hại cho người khác thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường; nếu người đã cố ý cho người khác uống rượu hoặc chất kích thích khác mà gây ra thiệt hại nhưng không chứa đựng động cơ, mục đích nói trên và người gây thiệt hại là người có năng lực hành vi dân sự thì người gây thiệt hại phải bồi thường.
Trường hợp người dưới 15 tuổi và người bị mất năng lực hành vi dân sự
Đối với người dưới 15 tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự tự mình dùng rượu hoặc chất kích thích thì họ không phải chịu trách nhiệm bồi thường. Trách nhiệm bồi thường trong tình huống này được xác định đối với cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đã gây ra thiệt hại.
Đối với người dưới 15 tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự nhưng họ bị người khác cố ý cho họ dùng rượu hoặc chất kích thích khác mà gây thiệt hại thì người đã cho họ dùng rượu hoặc chất kích thích phải chịu trách nhiệm bồi thường kể cả khi việc cố ý cho những người này uống rượu hoặc dùng các chất kích thích khác không chứa động cơ, mục đích nói trên.
Căn cứ vào Khoản 2 và Khoản 3 Điều 586 Bộ luật Dân sự 2015 quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân như sau:
- Người chưa đủ 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ đẻ bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thườn phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này;
- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
>>> Xem thêm: Yếu tố “lỗi” trong việc xác định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại bằng tiền
Quy định về khởi kiện bồi thường thiệt hại do người dùng chất kích thích gây ra
Thẩm quyền giải quyết
Căn cứ Khoản 6 Điều 26 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 thì tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Trong đó, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng gồm thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, tổ chức.
Đây là tranh chấp về dân sự nên theo Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 37, Khoản 1 Điều 39 thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án cấp huyện, cấp tỉnh nơi bị đơn cư trú, làm việc hoặc các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu nơi có trụ sở của nguyên đơn.
Hồ sơ khởi kiện
Căn cứ Khoản 4 và Khoản 5 Điều 189 BLTTDS 2015 thì hồ sơ tiến hành khởi kiện ra Tòa án Nhân dân bao gồm:
- Đơn khởi kiện (Mẫu số 23-DS Nghị quyết 01/2017/NQ-HĐTP);
- Giấy tờ tùy thân: CCCD/CMND;
- Các tài liệu chứng cứ kèm theo: mức thiệt hại do người sử dụng chất kích thích gây ra….;
- Bản kê các tài liệu nộp kèm theo đơn khởi kiện (ghi rõ bản chính, bản sao)
Trình tự thủ tục
Để giải quyết các vụ án tranh chấp dân sự cần phải theo trình tự thủ tục sau đây:
Bước 1: Nội đơn khởi kiện theo Mẫu số 23 – DS (Ban hành kèm theo Nghị Quyết 01/2017/NQ – HĐTP, do Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao ban hành ngày 13/07/2017).
Người khởi kiện nộp đơn khởi kiện tại Tòa án Nhân dân cấp huyện nơi bị đơn cư trú, làm việc hay Tòa án nơi nguyên đơn cư trú nếu các bên có thỏa thuận.
Bước 2: Thụ lý và mở phiên họp
- Trong thời hạn 03 ngày Chánh án sẽ phân công thẩm phán xem xét đơn khởi kiện.
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được phân công Thẩm phán phải xem xét có thụ lý vụ án hay không.
- Sau khi thụ lý, Chánh án phân công Thẩm phán khác giải quyết vụ án trong thời hạn 03 ngày.
- Trong thời gian chuẩn bị xét xử, Thẩm phán tiến hành lập hồ sơ, xem xét, xác minh thu thập chứng cứ và tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Bước 3: Tòa án ra quyết định
- Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự;
- Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
- Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
- Đưa vụ án ra xét xử.
Cơ sở pháp lý: Điều 39, Điều 191, Điều 203, Điều 212, Điều 214, Điều 217, Điều 220, khoản 2 Điều 286 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015)
Tòa án giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại
Luật sư tư vấn về mức bồi thường thiệt hại do người dùng chất kích thích gây ra
- Tư vấn mức bồi thường mà người bị hại được nhận;
- Tư vấn soạn thảo đơn từ: đơn khởi kiện…;
- Tư vấn trình tự thủ tục cần thiết cho quá trình khởi kiện;
- Đại diện làm việc với các cơ quan có thẩm quyền;
- Ủy quyền bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng trước tòa;
- Tư vấn các dịch vụ khác có liên quan.
>>> Xem thêm: Cách xác định thiệt hại trong vụ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Bài viết trên của chúng tôi đã giải quyết vấn đề Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người dùng chất kích thích gây ra. Nếu Quý bạn đọc còn bất kỳ thắc mắc gì về thủ tục khởi kiện hay mức đền bù thiệt hại mà người gây ra thực hiện thì đừng ngần ngại mà hãy liên hệ ngay cho Luật sư tư vấn của chúng tôi qua hotline: 1900.6363.87 để được giải đáp ngay nhé. Xin cảm ơn.