Luật Dân sự

Yếu tố “lỗi” trong việc xác định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Lỗi là trạng thái tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, phản ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện.Vậy yếu tố trong việc xác định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đóng vai trò như thế nào và có ý nghĩa gì không? Qua bài viết dưới đây, Chuyên tư vấn luật sẽ chia sẻ vấn đề liên quan đến Yếu tố “lỗi” trong việc xác định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

 

yếu tố lỗi

Yếu tố “lỗi” trong việc xác định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Yếu tố “lỗi” trong trách nhiệm dân sự

Khi một chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định những yêu cầu của xã hội đã được thể hiện thông qua các quy định của pháp luật. Trường hợp một người có đủ nhận thức và điều kiện để lựa chọn cách ứng xử sao cho phù hợp với pháp luật, tránh thiệt hại cho chủ thể khác nhưng vẫn chọn thực hiện hành vi gây thiệt hại thì người đó bị coi là có lỗi.

Như vậy, lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, phản ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ đã thực hiện. Theo quy định tại Điều 364 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015), lỗi trong trách nhiệm dân sự gồm hai hình thức sau đây:

  • Lỗi cố ý: Một người bị coi là có lỗi cố ý nếu họ đã nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện hành vi đó. Nếu người này mong muốn thiệt hại xảy ra từ việc thực hiện hành vi thì lỗi của họ là lỗi cố ý trực tiếp. Nếu họ không mong muốn thiệt hại xảy ra nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra thì lỗi của họ là lỗi cố ý gián tiếp.
  • Lỗi vô ý: Người có hành vi gây thiệt hại được xác định là có lỗi vô ý nếu họ không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại mặc dù họ phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Theo quy định tại khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Như vậy, có thể thấy rằng, các căn cứ bắt buộc phải có để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng gồm các yếu tố sau:

  • Có thiệt hại xảy ra: Thiệt hại là một trong các yếu tố cấu thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có sự thiệt hại về tài sản hoặc sự thiệt hại về tinh thần.

>>>Xem thêm:  Thủ tục yêu cầu bồi thường trong vụ án hình sự như thế nào?

Sự thiệt hại về tài sản: là sự mất mát hoặc giảm sút về một lợi ích vật chất được pháp luật bảo vệ; thiệt hại về tài sản có thể tính toán được thành một số tiền nhất định.

Thiệt hại về tinh thần được hiểu là do tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, giảm sút hoặc mất uy tín, tín nhiệm, lòng tin… và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu.

  • Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật: Hành vi trái pháp luật trong trách nhiệm dân sự là những xử sự cụ thể của chủ thể được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, bao gồm: làm những việc mà pháp luật cấm, không làm những việc mà pháp luật buộc phải làm, thực hiện vượt quá giới hạn pháp luật cho phép hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
  • Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra: Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại. Hành vi trái pháp luật sẽ là nguyên nhân của thiệt hại nếu giữa hành vi đó và thiệt hại có mối quan hệ tất yếu có tính quy luật chứ không phải ngẫu nhiên. Thiệt hại sẽ là kết quả tất yếu của hành vi nếu trong bản thân hành vi cùng với những điều kiện cụ thể khi xảy ra chứa đựng một khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại.

Trong quy định trên không nhắc đến lỗi là căn cứ bắt buộc để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Như vậy, lỗi không phải là điều kiện bắt buộc để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

căn cứ phát sinh

Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Yếu tố “lỗi” có là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng?

Trước đây, theo quy định của Bộ luật Dân sự cũ, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng yêu cầu người gây thiệt hại phải có “lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý”. Theo đó, ngoài việc chứng minh người gây thiệt hại có “hành vi trái pháp luật”, cần phải chứng minh thêm rằng người gây thiệt hại có “lỗi”.

Nhưng đến Bộ luật Dân sự năm 2015 yếu tố “lỗi” đã không còn là căn cứ bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cụ thể tại khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bỏ yếu tố lỗi trong căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, theo đó người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. Như vậy, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của pháp luật hiện nay gồm ba căn cứ bắt buộc sau đây:

  • Có thiệt hại thực tế xảy ra;
  • Có sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật;
  • Có mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật và thiệt hại thực tế đã xảy ra.

Cần lưu ý rằng: theo quy định tại khoản 2 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. Tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.”

Theo đó thì một sự kiện sẽ được coi là bất khả kháng nếu: (i) xảy ra một cách khách quan, (ii) không thể lường trước được và (iii) không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Căn cứ theo quy định về hệ quả pháp lý trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng được quy định tại khoản 2 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì người gây thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

>>>Xem thêm: Mức phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong giải quyết tranh chấp thương mại

Vai trò của yếu tố “lỗi” trong việc xét giảm mức bồi thường thiệt hại

Theo quy định tại khoản 2 Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình. Như vậy, theo quy định này có thể thấy rằng luật đang theo hướng xem xét mức bồi thường thiệt hại sẽ được dựa trên yếu tố “lỗi” của người phải chịu trách nhiệm bồi thường.

Cụ thể là: trong trường hợp không có lỗi hoặc do lỗi vô ý mà gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế của người gây thiệt hại dẫn đến việc họ không thể có khả năng bồi thường toàn bộ và đầy đủ thiệt hại xảy ra trên thực tế thì có thể được xem xét giảm mức bồi thường thiệt hại. Như vậy, Giảm mức bồi thường thiệt hại hay bồi thường một phần thiệt hại được hiểu là mức bồi thường của người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải thực hiện nhỏ hơn so với thiệt hại thực tế đã xảy ra. Nghĩa là trong trường hợp này sẽ không thể đảm bảo được nguyên tắc “thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và tạm thời”

Và theo khoản 2 của Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì nguyên tắc giảm mức bồi thường thiệt hại như trên chỉ được áp dụng khi việc gây thiệt hại có đủ hai yếu tố:

  • Về mặt chủ quan: Người có hành vi trái pháp luật, không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết trước hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc đã thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại nhưng do cẩu thả hoặc quá tự tin cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được nên đã thực hiện hành vi đó và gây ra thiệt hại ngoài mong muốn của mình ( lỗi vô ý)
  • Về mặt khách quan: xét về hoàn cảnh hiện tại cũng như lâu dài. Người gây thiệt hại không có khả năng kinh tế để bồi thường toàn bộ thiệt hại vì thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế của họ.

Đây là nguyên tắc thể hiện tính nhân văn của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, để giảm mức bồi thường thiệt hại thì người gây ra thiệt hại phải thỏa mãn đủ hai điều kiện là không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại gây ra quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.

Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 4 của Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015 có thêm quy định trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây ra thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra. Điều này có nghĩa là yếu tố “lỗi” đang được xem xét trong trường hợp này, phần thiệt hại trên thực tế phát sinh do lỗi của chính bên bị thiệt hại thì người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không cần phải bồi thường. Quy định này thể hiện được sự công bằng và rất có tính thuyết phục.

Ngoài các quy định trên thì cũng cần lưu ý thêm quy định tại khoản 2 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 về trường hợp người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

>>>Xem thêm: Lưu ý khi yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Tư vấn bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

  • Tư vấn Điều kiện, căn cứ để bồi thường thiệt hại
  • Xác định mức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
  • Tư vấn các trường hợp không phải bồi thường
  • Soạn thảo đơn từ, chuẩn bị hồ sơ khởi kiện đòi bồi thường ngoài hợp đồng
  • Bảo vệ quyền lợi của khách hàng khi làm việc với bên thứ ba, với cơ quan nhà nước

liên hệ

Liên hệ Chuyên tư vấn luật để được tư vấn chi tiết

Trên đây là các quy định của pháp luật liên quan đến Yếu tố “lỗi” trong việc xác định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Hy vọng bài viết này sẽ mang đến những thông tin hữu ích cho Quý khách hàng. Trường hợp Quý khách hàng còn có thêm những vướng mắc về thủ tục thì đừng ngần ngại, hãy gọi ngay đến số Hotline 1900636387 để được tư vấn luật dân sự tư vấn và hỗ trợ. Trân trọng ./.

 

 

4.7 (19 bình chọn)

Bài viết được Nguyễn Văn Đệ - Luật sư kiểm duyệt: Nguyễn Trần Phương
Nguyễn Văn Đệ - Luật sư kiểm duyệt: Nguyễn Trần Phương

Tác giả: Chuyên Viên Pháp Lý

Lĩnh vực tư vấn: Lao Động, Hôn Nhân Gia Đình, Dân Sự, Thừa Kế

Trình độ đào tạo: Đại Học Luật

Số năm kinh nghiệm thực tế: 3

Tổng số bài viết: 755 bài viết